Thứ Năm, 8 tháng 10, 2009

Một Vài Vấn Đề Về Nhạc Cổ Truyền Việt Nam

Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc mới. Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc? Có những bài ca như Vọng cổ, Tứ Đại Oán, vàrất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có phải là cổ nhạc hay tân nhạc, vìcác bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ 20 trở đi? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo quan niệm, nhận xét của người nghiên cứu.

Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử âm nhạc thế giới, thì giai đoạn âm nhạc cận đại của nhạc ngữ Tây phương bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19. Do đó, ranh giới định rõ cổ và tân nhạc rất là lu mờ.

Để tránh mọi ngộ nhận phức tạp, chúng ta tạm gọi như sau. "Cổ nhạc" là loại nhạc được lưu truyền từ ngàn xưa đến nay theo phương pháp truyền khẩu, dính liền vào đời sống hàng ngày của người dân quê hay thị thành hoàn toàn tiêm nhiễm văn hóa Đông Phương. "Tân nhạc" dùng để chỉ loại nhạc được các nhạc khí Tây Phương trình bày như nhạc phòng trà, nhạc được sáng tác theo phương pháp Tây Phương.

Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa "Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc". Chúng tôi thường nghe người mình nói với nhau khi đi xem đại nhạc hội do các hội tổ chức cho người Việt tỵ nạn xem : "Chà! kỳ này hát toàn tân nhạc không, còn cổ nhạc sao không thấy đâu hết !", mặc dù trong chương trình buổi đó có nhiều tiết mục dân ca, hát bội, vv ...Ä Đa số người Việt tỵ nạn chỉ biết có "Vọng cổ" mà thôi và chỉ thích nghe một bài Vọng cổ, chứ ngoài ra không để ý đến những bài khác dùng trong hát cải lương. Những người đặt tuồng lại không thấu triệt vốn liếng cổ nhạc nên số bài bản được sử dụng trong các tuồng cải lương ngày nay ở hải ngoại rất bị giới hạn, và số nghệ sĩ cải lương chỉ ráng học 6 câu xuống cho thật mùi làăn tiền, chứ không cần học hỏi thêm bài bản như các nghệ sĩ tiền bối của giai đoạn 1940.

Với mục đích trình bày cùng độc giả một kho tàng phong phú của nền cổ nhạc Việt Nam, và một số vốn đáng kể về bài bản trong hát cải lương, cũng như sự hình thành về sự phát triển của bài ca Vọng cổ, chúng tôi tạm chia bài tiểu luận này làm ba phần:

Vọng cổ là gì?
Cải lương là gì?
Cổ nhạc là gì?

VỌNG CỔ LÀ GÌ?

Ai sáng tác bài "Vọng cổ"? Theo đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam, ông Sáu Lầu (tên thật là Cao Văn Lầu), người gốc gác tỉnh Bạc Liêu, nhân nghe trống điểm văng vẳng từ một chòi canh gần thôn xóm nhà, thấy tâm hồn xúc động mà nẩy ra ý nhạc viết thành bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghĩa là nghe trống canh khuya nhớ chồng). Ông Sáu Lầu, sau khi chung sống với vợ 8 năm mà không có một mụn con, ba má của ông mới bắt ông phải kiếm một người vợ khác để hy vọng có con nối dõi tông đường. Vào nă m 1920 ông Sáu Lầu mới dùng cây đờn cò để sáng tác bài "Hoài Lang" (nhớ tới người yêu của mình". Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài này cho ông Tần Xuân Thơ (gọi là Thống, thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở Bạc Liêu) nghe. Chính ông Tần Xuân Thơ viết lời cho bài "Hoài Lang" được sửa lại là "Dạ Cổ hoài lang", nhịp hai. Khi hát cải lương thành hình trong thập niên 20, bài "Dạ Cổ hoài lang" được các ông thầy tuồng đưa vào các vở cải lương và dần dần thay thế bản Tứ đại oán.

Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa. Vợ chồng ông Sáu Lầu được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con. Ông Tần Xuân Thơ mới đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng cổ" (tức nhớ chuyện dĩ vãng).

Khoảng năm 1925-27, bài "Dạ Cổ hoài lang" được phổ biến rộng rãi trong giới cải lương. Nhịp hai không đủ chỗ để viết lời cho nên bài "Vọng cổ" được tăng lên thành nhịp 4. Bài "Tiếng nhạn kêu sương" của ông Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung) có thể là bài đầu tiên viết theo bản "Dạ Cổ hoài lang nhịp tư".

Thầy Giác là người khởi xướng bài "Dạ Cổ hoài lang nhịp 8 " vào khoảng nă m 1929-1930. Nhưng phải đợi tới năm 1935-37 nghệ sĩ Năm Nghĩa chính thức phổ biến trong giới yêu cải lương qua bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa".

Bài "Vọng cổ nhịp 16" được chính thức thành hình vào năm 1938 qua tiếng đờn của nhạc sĩ Bảy Hàm với tiếng hát của cô Tư Sạng trong bài "Tình Mẫu Tử". Nhưng phải đợi vài năm sau (sau thế chiế n thứ 2) với tiếng hát điêu luyện của nghệ sĩ Út Trà Ôn trong bài "Tôn Tẩn Giả Điên", bài "Vọng cổ nhịp 16" mới được phổ biến rộng rãi hơn.

Từ năm 1954 trở đi, bản "Vọng cổ nhịp 32" xuất hiện qua các dĩa há t do các hãng dĩa Asia, Hồng Hoa, Lam Sơn, Hoành Sơn xuất bản. Bài "Đội Gạo Đường Xa" của Kiên Giang do nghệ sĩ Hữu Phước hát được kể là tiêu biểu nhứt.

Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu mới đưa tân nhạc vào tạo thành loại hát "tân cổ giao duyên". Cách đưa tân nhạc vô bài Vọng cổ bắt buộc phải rút ngắn bản Vọng cổ làm bài Vọng cổ 6 câu còn lại 4 câu thôi.

Vềsau có người đưa bài Vọng cổ lên thành Vọng cổ nhịp 64 và Vọng cổ nhịp 128 nhưng không thành công. Cho nên tới hôm nay, sau gần 50 năm bản Vọng cổ nhịp 32 vẫn còn "ăn khách" và được phổ biến mạnh mẽ.

Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta được thấy một bài nhạc biến chuyển và phổ biến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trong lòng của đại đa số người Việt trong cũng như ngoài nước. Tuy là một bài buồn nghe muốn "đứt ruột, nhức xương ", làm cho người xa nhà, nhớ quê hương, mà cũng có thể làm cho người lính hy sinh tánh mạng nơi chiến trường để giữ vững bờ cõi, hay nung nấu lòng phục quốc của người di tản hiện nay. Thường thì bài buồn dùng âm điệu buồn, bài vui dùng âm điệu vui như chúng ta biết trong cách sử dụng viết nhạc. Đây là một trường hợp ngoại lệ, mà nếu có dịp, tôi sẽ phân tích tường tận hơn.

Vọng cổ chỉ là một bài trong phần nhạc cải lương. Biết hát vọng cổ chưa có thể nói là biết hát cổ nhạc, biết hát cải lương. Hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng hay loại nhạc "xa-long" (tiếng Pháp là "Salon") hoàn toàn khác với hát vọng cổ trong cải lương. Người hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng cố gắng hát cho thật hay trong cách ngân nga, luồng giọng cho ngọt, nhịp nhàng cho chắc. Người đệm đàn cho bài vọng cổ trong loại nhạc thính phòng chỉ cần giữ nhịp cho chắc, và có thể nhấn vuốt tùy theo tài nghệ của người đánh đờn. Hát vọng cổ trong cải lương có khi chỉ hát hai câu, 4 câu, hoặc 5 câu, ít khi hát 6 câu từ đầu đến cuối. Sự khác biệt giữa hai cách hát rất quan trọng. Có người chỉ biết hát hoặc hoặc đờn vọng cổ cho loại nhạc thính phòng mà không thể hát hay đờn vọng cổ cho hát cải lương.

CẢI LƯƠNG LÀ GÌ?

Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vìcải lương, sau trên 80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn lãnh thổ sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những gìmàchúng ta không thể nói được.

Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển "Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương", tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không chắc chắn ngày khai sanh của bộ môn hát mới này. Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập hát cải lương vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được mở mắt chào đời vào năm 1916. Vì không có tài liệu viết trên giấy trắng mực đen, nên không thể khẳng định ngày giờ chắc chắn của sự xuất hiện của cải lương.

Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức ca tài tử tại tư gia khoảng năm 1915. Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết. Lúc đó đã có thấy xuất bản một quyển "Bản đờn tranh và bài ca" do Phụng Hoàng Sang soạn, và Đinh Thái Sơn xuất bản, Saigon, in lần thứ ba, năm 1907. Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng 1900. Qua quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những bài sau đây : "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn", " Bát Man Tấn Cống", "Tứ Đại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân", "Nam Ai", "Tứ Đại Cảnh". Có người cho rằng ông thầy Ký Trần Quang Quờn đã sáng tác bài "Tứ Đại Oán" và "Văn Thiên Tường". Điều chắc chắn là ông Trần Quang Quờn đã sáng chế nhiều cây đờn như cây đại ba tiêu, tiểu ba tiêu, cây song thương màngày nay không thấy được phổ biến. Có thể nói đây là giai đoạn tượng hình thai nghén của hát cải lương.

Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là "Ca ra bộ". Bài hát điển hình nhất làbài "Tứ đại oán " (Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười Hai. Tại Vĩnh Long, chúng ta có thể nghĩ là nơi phát xuất của hát "ca ra bô", giai đoạn phôi thai của hát cải lương. Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ danh Tống Hữu Định, ông Trần Quang Quờn, ông Phạm Đăng Đàng là một danh cầm đất Vãng là những người đóng góp đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau này.

Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert Sarrault, dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên một số chủ bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Đốc Phủ Bảy, Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng, vv ...) bè n chia nhau các vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống Đức. Do sự cải tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát bộ" nghĩa là hát ra bộ qua vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon ngày 16 tháng 11, 1918.

Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Định, ở Sa Đéc có gánh xiệc pha ca ra bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười Vui, ở Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của Vương Văn Có), vv ...

Suy đi nghĩ lại, điểm mà ai cũng đồng ý là hát cải lương bắt nguồn từ hát bội. Lúc ban sơ, các tuồng hát đều dựa theo tuồng cổ của hát bội như "Trảm Trịnh Ân", "Ngưu Cao tảo mộ", "Thoại Khanh Châu Tuấn". Ở hát bội, câu ca không cần bị gòbó theo nhạc đàn, tuy rằng căn bản phải gìn giữ đúng với âm điệu, do đó diễn viên được tự do sáng tạo, được phát huy sở trường, câu hát cao hay thấp, mau hay chậm, ngân nga hay kéo dài không bị giới hạn, chỉ cần phải hòa với nhạc đàn ở những nhịp chính là được. Còn trong cải lương, câu ca phải đúng với điệu đàn, phải hợp với giai điệu và tiết tấu. Để tránh những cử chỉ tượng trưng quá nhiều và hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát cải lương với những bài ca mùi mẫng, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với những tuồng gần với xã hội Việt Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường ngày, với những động tác tự nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu. Về âm nhạc thì bỏ những lối hát nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường, tán, chỉ giữ và phát triển thêm lối nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài tử. Số vốn ca nhạc của sân khấu cải lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong phú. Về điệu "Lý ", có "Lý Ngựa Ô", "Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý Chuồn Chuồn". Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán . Có ba bài Nam : "Nam Xuân", "Nam Ai " và "Nam Đảo", bốn bài oán như "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như "Văn Thiên Tường", "Bình Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Đề Quyên". Ngoài ra những cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi Vắn", "Khổng Minh Tọa Lầu", "Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội". Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản". Bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ", "Long Đăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc ". Đó là chưa kể 8 bài ngắn khác dùng trong nhiều trường hợp vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê ", "Chiêu Quân", "Trường Tương Tư", "Đường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên Kỳ ngộ", "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10 Liên Hoàn (Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẫu Mã).

Giai đoạn tiên khởi của cải lương bắt đầu bằng gánh hát của thầy André Thận vào năm 1917. Đến năm 1918, gánh André Thận rã, thầy Nă m Tú ở Mỹ Tho mới gom góp các tài tử của André Thận lập nên gánh Thầy Năm Tú, sắm thêm y phục, tranh cảnh, và có Trương Duy Toản là thày soạn tuồng đàng hoàng.

Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván gõ, và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ. Thầy Năm Tú có công trong việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt Nam qua các dĩa hát 78 vòng mà những người từ bát tuần trở lên đều nhớ mỗi khi nghe dĩa hát bát đầu bằng cầu "Đây là bạn hát cải lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, hát cho dĩa Pathé Phono nghe chơi"

Từ đó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm. Nào gánh Tập Ích Ban, gánh Tân Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương, gánh Trần Đắc, gánh Huỳnh Kỳ, gánh Phụng Hảo, vv ... đã tạo cho sân khấu cải lương một nền móng vững chắc. Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam ở Saigon) như các bà Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa Đéc, Thanh Tùng, Kim Thoa, và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Nghĩa, Tám Danh, Ba Du, vv… đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ khai đến chỗ toàn hảo.

Từ năm 1938 đến năm 1945, nhóm Kim Thoa của Tư Chơi và gánh Kim Chung tìm cách pha nhạc Tây vào câu ca bài bản cổ Việt.

Đến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng cũ ra diễn lại mà thôi.

Từ năm 1950 trở về sau, cải lương lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ, đánh chưởng, vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra loại tân cổ giao duyên.

Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử, tuồng chiến (gánh hát của Bảy Cao), tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng chưởng, tuồng hồ quãng, vv...

Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần năm 2001), Thành Được (hiện sống ở San Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon, Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống ở California, Hoa Kỳ), vv ... về phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon), Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết (hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh Thanh Hoa (Saigon), Ngọc Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vv ... về phía nữa.

Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Đước (gánh Tân Đồng Ban, từ trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân Hí, Mộng Vân, Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững, Hề Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh,vv ...là những người đã đem sức đem hơi ra chọc được tiếng cười dòn tan của khán giả. Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia thế giới.

Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí Tâm (hiện sống ở Hoa Kỳ), Vương Kiệt, Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ), Phượng Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vv ... nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các bậc tiền bối.

Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm. Ngày nay số gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam, trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải lương tỵn nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh.

CỔ NHẠC LÀ GÌ?


Cổ nhạc, nói chung, bao gồm nhiều loại nhạc khác nhau: nhạc cung đình, nhạc tôn giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng (hát bội, chèo, cải lương), nhạc dân gian từ bài hát ru con, các loại đối ca, đến loại hò đưa linh. Nói một cách khác, cổ nhạc là nhạc của người dân Việt từ thời lập quốc đến giai đoạn hiện đại do người Việt sáng tác theo truyền thống truyền khẩu. Trong phạm vi bài này, tôi không thể tạm gác một bên các loại nhạc đồng bào thiểu số vì không thể kê khai nhạc của 54 sắc tộc sống trên xứ Việt ngư người Thái, Mông, Mường, Mán, Thổ, Tày, Dao, Ra-đê, Ba-na, Mnong, Sê Đăng, Ê Đê, Chàm, vv...

Nhạc cung đình được Lương Đăng phỏng theo nhạc cung đình nhà Minh bên Trung quốc vào thế kỷ thứ 15. Đến thời nhà Nguyễn (1802-1945), nhạc cung đình gồm các loại : Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường Triều nhạc, Cứu Nhựt nguyệt giao trùng nhạc, cung trung chi nhạc, Yến nhạc, văn nhạc, võ nhạc do nhiều dàn nhạc như đại nhạc, tiểu nhạc với số nhạc công rất đông. Đó là chưa kể một số điệu vũ như văn vũ, võ vũ, tứ linh vũ, hoa đăng vũ, bát man tấn cống vũ, vv …

Nhạc tôn giáo gồm có nhạc Khổng giáo bây giờ không cò n nữa (chỉ còn nghe tại Đài Loan và Đại Hàn mà thôi ), nhạc Phật Giáo rất phong phú với các điệu niệm, tán, tụng đầy nhạc tính, nhạc Cao Đài đặc biệt miền Nam trên điệu Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Oán), và tất cả các loại nhạc dính liền với các tế lễ như chầu văn, hầu văn, rỗi bóng, lên đồng, nhạc đám ma.

Nhạc thính phòng (tạm gọi là thính phòng theo nghĩa Tây phương), là một bộ môn rất được ưa chuộng tại Việt Nam. Có ba loại nhạc thính phòng đặc thù của ba miền : miền Bắc có "Hát Ả Đào", miền Trung có "Ca Huế ", và miền Nam có "Đàn Tài Tử ". Hát ả đào còn gọi là "Ca Trù ", "Hát Cô Đầu" không còn được thịnh hành tại miền Bắc vì không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại mặc dù đã được chấn hưng từ 20 năm nay. " Ca Huế ", với các bài Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh, 10 bài ngự vẫn còn được ưa thích. "Đàn Tài Tử " được bành trướng mạnh mẽ tại miền Nam với các đại hội liên hoan được tổ chức tại các tỉnh miền Nam (Tân An, Mỹ Tho, Bạc Liêu). Chính "Đàn Tài Tử " đã đóng góp rất nhiều cho sự hình thành nhạc hát cải lương.

Nhạc dân gian Việt Nam rất giàu. Miền Bắc có biết bao nhiêu dân ca đã làm sống lại những nét đẹp của phong cảnh, của phong tục nghìn xưa như loại hát quan họ Bắc Ninh với phong tục kết bạn, ngủ bọn (liền anh, liền chị), hát thi hát lấy giải; rồi hát trống quân, hát giậm, hát phường vải, hát ví, hát xoan, cò lả, hội sim. Ngoài ra còn có hát xẩm. Miền Trung có hò sông Mã, hò mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hò hụi, hò nện, các điệu lý như lý mười thương, lý con sáo, lý giao duyên. Trong Nam những điệu hò thay đổi từng miền, từng vùng như Hò Đồng Tháp, hò Bạc Liêu, hò Bến Tre, hò lơ, hay các điệu lý như Lý Ngựa Ô, lý chuồn chuồn, lý con khỉ Đột, lý dĩa bánh bò, lý che hường, vv ... Hầu hết các điệu lý, hò, đối ca đều dựa trên thể thơ lục bát rất đặc biệt Việt Nam. Dân ca Việt Nam, nhờ vào những cuộc hát thi lấy giải và óc sáng tạo nhạy bén mà ngày nay có trên mấy ngàn bài được phổ biến khắp nơi.

Tôi hy vọng rằng, qua bài tiểu luận này, quý bạn đọc sẽ có một khái niệm đại cương về thế nào là "Vọng cổ", thế nào là "Cải lương", thế nào là "Cổ nhạc". Biết được nguồn gốc nhạc Việt là một điều cần thiết nhứt là cho kiến thức văn hóa cho mỗi người trong chúng ta lúc phải bị lìa xa quê hương. Hiểu được nhạc mình, biết qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và Việt để đừng bị mất gốc mất rể và có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau. Tự hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc Việt, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc để xứng đáng là con cháu dòng dõi Lạc Hồng.

Trần Quang Hải

Dân ca Việt Nam

Tiến sĩ Trần Quang Hải hiện đang làm việc tại Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (National Center for Scientific Research) của nước Pháp với chức vụ nghiên cứu gia về dân tộc nhạc học (ethnomusicologist) chuyên về nhạc Việt Nam và nhạc Á châu, đặc biệt về giọng hát.

Dân ca Việt Nam rất là phong phú. Tất cả những bài ca do dân quê sáng tác và không thuộc nhạc triều đình, nhạc thính phòng, nhạc tôn giáo thì được xếp vào loại dân ca.

Xứ Việt Nam với gần 80 triệu người Việt và 53 sắc tộc khác nhau thừa hưởng một truyền thống dân ca đa diện.

Định nghĩa danh từ dân ca, theo tôi, là những bài ca không biết ai là tác giả, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền với đời sống hàng ngày của người dân quê, từ bài hát ru con, sang các bài hát trẻ em lúc vui chơi, đến các loại hát lúc làm việc, hát đối đáp lúc lễ hội thường niên.

Dân ca lại mang một màu sắc địa phương đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ, giọng nói, và âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút. Nhưng nhìn chung, vẫn là bài hát thoát thai từ lòng dân quê với tính chất mộc mạc, giản dị của nó.

Dân ca Việt Nam được trình bày theo trình tự một đời người, nghĩa là bắt đầu bằng các bài hát ru em khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn lên, trưởng thành và chết đi, sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một đời người.

Tôi xin bàn về các bài hát ru em và các bài hát nghe trong lúc trẻ em vui chơi, nô đùa. Chúng ta thường nghe lúc còn ấu thơ, được chị, mẹ hay bà ngoại hoặc bà nội ru cho ngủ. Loại hát này được gọi là hát ru (miền Bắc), ru con (miền Trung), hay hát đưa em, ầu ơ ví dầu (miền Nam). Âm giai dùng trong loại hát ru em được thay đổi tùy theo vùng. Ở miền Bắc, hát ru dựa vào thang âm ngũ cung (do-ré-fa-sol-la-do). Miền Trung sử dụng âm giai tứ cung (do-fa-sol-sib-do), và miền Nam thì chọn âm giai ngũ cung (do-mib-fa-la-do). Người mẹ thường bày tỏ nỗi lòng của mình, hay than van số phận hẩm hiu của mình qua bài ầu ơ ví dầu. Lời ca thường lấy trong ca dao và thể thơ là lục bát.

Ầu ơ.. Gió đưa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

Con thơ tay ẩm tay bồng

Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông .

Đến khi đứa trẻ lớn lên, trong lúc chơi giỡn thường hay hát những bài mà đa số các giai điệu đều dựa trên thang âm tam cung (do-fa-sol). Chẳng hạn, khi chơi ú tìm, các trẻ em để ngón tay trỏ của mình vào trong lòng bàn tay của một em trong bọn. Một đứa trẻ hát:

Chi chi chành chành

Cái đanh thổi lửa

Con ngựa chết chương

Ba vương thượng hạ

Ba cạ đi tìm

Ú tim oà ập.

Khi nói tới tiếng "ập" thì bàn tay nắm được ngón tay người nào thì người đó nhắm mắt đếm để cho những người khác chạy đi trốn.

Ngoài ra còn có những trò chơi khác như đánh trõng, táng u, đánh dũa, hoặc là oánh tù tì (từ chữ Anh là one, two, three, nghĩa là một, hai, ba) giúp cho trẻ em Việt Nam giải trí trong khi nhàn rỗi, ngoài giờ học hỏi ở nhà trường.

Hò từ chữ HÔ mà ra, có nghĩa là làm cho giọng mình manh hơn. Do đó, Hò thường đi đôi với việc làm nặng như kéo gỗ, chèo thuyền, đập đá. Nhưng hò cũng có thể hát lúc nghỉ ngơi, lúc hội hè, lúc đám tang như hò đưa linh, và có khi dính liền với một vùng nào đó như hò Nghệ An, hò Thanh Hóa, hò Sông Mã, hò Đồng Tháp.

Có ba loại Hò chánh:

Hò trong lúc làm việc, tiết điệu ăn khớp với động tác, và thường dùng những chữ như dô ta, rố khoan, hụ là khoan,vv...

Hò trong lúc nghỉ xả hơi, thường là hò đối giữa trai gái có tính cách đùa giỡn, chọc ghẹo hay tỏ tình.

Hò trong lúc lễ hội, thường là hò đối đáp để tranh giải.

Hò làm việc thường hò đông người với nhau. Một người hò trước và tất cả phụ họa theo sau. Người hò chánh gọi là hò cái và những người phụ họa gọi là hò con. Hò chia làm hai phần: lớp trống hay vế kể thì do một người hát, còn lớp mái hay vế xô thì do toàn thể phụ họa.

Ở miền Nam, hò thường nghe trên sông, hay lúc làm việc ngoài ruộng. Mỗi tỉnh, mỗi vùng có những loại hò đặc biệt. Do đó có tên gọi như hò Bến Tre, hò Cần Thơ, hò Đồng Tháp.

Ở tỉnh Bến Tre, có thể có loại hò như sau:

Hò ớ ơ....

Xứ nào vui cho bằng xứ Cù Lao, ớ ơ...

Hò ớ ơ.....

Tiếng muỗi kêu như ống sáo thổi

Bông mọc như hàng rào sương lý, ớ ơ...

Hoặc xuyên qua câu hò, chúng ta có thể biết người hò thuộc địa phương nào như:

Hò, ớ ơ...

Ghe anh nhỏ mũi trắng lườn

Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em, ớ ơ...

Hò miền Nam gồm có hò ba lý xuất xứ từ bài Bá Lý Hề của cải lương rất được thông dụng giữa các ca sĩ chuyên nghiệp. Hò theo điệu ai oán dùng để kể chuyện. A li hò lờ xuất hiện khoảng 50 năm nay thôi, dùng thể thơ lục bát. Hò lô tô, hò cấy, vv... Các loại hò thường được ứng khẩu tùy hứng, nhạc thì chỉ có một giai điệu duy nhứt, hay theo một thang âm đặc biệt miền Nam (do-mib-fa-sol-la-do).

Miền Trung là nơi tập trung của nhiều loại hò và nhiều giai điệu hơn hai miền Bắc và Nam. Ngoài loại hò làm việc, hò đối, còn có hò đưa đám ma. Ở Thanh Hóa có hò sông Mã được chia làm năm loại hò tùy theo giai đoạn: hò rời bến, hò đò ngược, hò đò xuôi, hò mắc cạn, hò cập bến, với các đoạn kể, xô nhịp nhàng theo nhịp một, nhịp hai.

Trong khi chèo thuyền, chúng ta còn được nghe các loại hò mái xấp, hò mái nhì, hò mái đẩy. Có giả thuyết cho rằng mái có nghĩa là mái chèo, và còn có giả thuyết khác nữa cho rằng mái là đàn bà đối với trống là đàn ông. Còn xấp có nghĩa là mau hơn, nhì có nghĩa là đôi, là phải hát hai lần, còn đẩy có nghĩa là làm cho thuyền đi tới. Ở vùng Thừa Thiên, Quảng Trị còn nghe hò mái ba nghĩa là phải hát ba lần.

Các loại hò làm việc như hò đạp nước, hò tát nước, hò khiêng nước, hò xay lúa, hò giã gạo, hò giã đậu, hò giã vôi, hò mài dừa,vv...

Khi leo giốc, thì có hò leo dốc. Khi đập đá thì có hò nện hay hò hụi. Tiết tấu rất nhanh, và theo nhịp đập đá. Người kể hát một đoạn, thì toàn thể hát "hụ là khoan" để làm tăng sức mạnh khi làm việc.

Ở miền Bắc, hò đẩy xe, hò kéo gỗ rất được phổ thông. Một người hát một câu thì cả đám hát rố khoan, rố khoan rố khuầy hay hố khoan trong điệu bắt cái hố khoan hay bắt cá hò khoan do các người chài lưới hát. Ngoài ra, chúng ta còn tìm thấy điệu hò giã vôi hò dứt chỉ ở miền Bắc nữa.

Hầu hết các điệu hò ở Việt Nam đều dùng thể thơ lục bát với thể thức thêm những chữ không có nghĩa vào như "là hụ là khoan, rố khoan rố khuầy",vv... Với nghệ thuật ngắt câu khác nhau tùy theo từng điệu hò hoàn toàn khác biệt và phong phú qua tài sáng tác của các người dân quê, kho tàng dân ca do đó ngày càng to lớn hơn và xuyên qua các lời ca trong điệu hò, chúng ta thấy một nền văn chương bình dân phản ảnh trung thực ngôn ngữ của tiếng nói Việt Nam.

Miền Nam có rất nhiều điệu hò và lý. Những bài nào không thuộc vào hò thì là lý. Có Lý chim khuyên, Lý bông lựu, Lý chuồn chuồn, Lý cây chanh, Lý chè hương, Lý bỏ bìa, Lý con khỉ đột, Lý ngựa ô, Lý quạ kêu.

Lời ca rất mộc mạc, chỉ hai câu thơ lục bát trong bài Lý chim khuyên như:

Chim khuyên ăn trái nhãn lồng

Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi

mà được hát thành:

Chim khuyên (quầy a) ăn trái (quây a)

Nhãn lồng (à), nhãn lồng , ớ con bạn mình ơi !

Lia thia (quầy a) quen chậu (quây a)

Vợ chồng (à), vợ chồng, ớ con bạn quen hơi.

Miền Trung có thể nói là trung tâm của các điệu lý và hò. Lý có nghĩa là hát của giai cấp dân quê (do chữ lý làng mà ra), so với Ca Huế thuộc giai cấp vua chúa, quan liêu trí thức. Tất cả điệu lý được thoát thai từ các bài hát chèo, ca Huế, hát tuồng, và hát cải lương.

Điệu lý giao duyên bốn mùa hay lý vọng phu được hát theo điệu Nam ai Trung chuyển sang Ai Oán Nam khi xuống tới miền Nam và trở thành lý bốn mùa hay lý ru con. Thể thơ được dùng là thất ngôn:

Thí dụ như:

Giãi sông Ngân mây rầu rầu chuyển

Một bước đường trời biển chia hai

Hỡi nàng nàng ơi !

Anh dặn một lời xưa nhớ đừng quên.

Từ đó các nhà nho mới đem vào Ca Huế và đổi tên lại thành lý giao duyên 12 tháng như:

Đầu tháng giêng mãn thiên xuân sắc

Ai nấy vui mưng thiếp bặt mắt trông

Qua tháng hai bông hoa nhài ướm nở

Thiếp luống trông chàng vừa trở gió đông, vv...

Hát giao duyên với loại thơ thất ngôn cũng được dùng trong hát chèo.. Đến khi bài Lý giao duyên được sử dụng với thể thơ lục bát qua hai câu thơ:

Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng bay xa.

Thì lại được đổi lại là Lý con sáo. Điệu Lý con sáo rất được quãng bá ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Mỗi miền với thang âm đặc thù đã tạo ra ba điệu lý khác nhau: Lý con sáo Bắc, Lý con sáo Trung, và Lý con sáo Nam. Ngoài ra, chúng ta còn biết thêm một điệu Lý con sáo nữa là Lý con sáo Quảng.

Ở Thừa Thiên, khi hát bài lý con sáo, thay vì hát đoạn "ơi người ơi", lại hát "tang tình tang". Bài lý con sáo được gọi là Lý tình tang,và khi hát bài 10 thương thì được đổi thành lý mười thương.

Các điệu lý đều dựa trên thể thơ lục bát trên âm giai tứ cung nhu bài lý ba cô, lý lượn, hoặc âm giai ngũ cung như bài lý bắt bướm hay lý cây đa.

Nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát của người Việt rất tài tình. Qua hai bài Lý con sáo Trung và Nam, chúng ta nhận thấy dân tộc Việt Nam đưa vào những tiếng đệm bằng cách lập lại những chữ trong câu chẳng hạn nhu "í a, ố tang tình tang", vv mà làm cho nhạc điệu trở nên phong phú vô cùng.

Dân ca do đó đi sâu vào lòng dân và đôi khi còn ảnh hưởng rất mạnh vào nhạc thính phòng Ca Huế hay Đàn Tài Tử miền Nam hoặc vào các điệu hát Chèo, Cải lương.

Hát hội

Hát hội là loại hát đối giữa trai gái tùy hứng ca hát đối đáp thi tài cao thấp trong những dịp lễ đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát sau một ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng.

Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, cò lả ở vùng Bắc Ninh, hát đúm ở Hải Dương, hát phường vải ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo ở Thanh Hóa, hát xoan ở Phú Thọ,vv..

Hát hội hay hát đối đều mang những đặc điểm chung như sau:

Người hát, làng xã, phải đối nhau chẳng hạn nhóm nam ca sĩ đối lại với nhóm nữ ca sĩ, và thuộc làng xã khác nhau

Hầu hết đều là tình ca để đưa đến hôn nhân.

Đặc tính đoàn thể rất được nhấn mạnh, như trong quan họ có tục kết bạn và phải thuộc vào gia đình quan họ. Truyền thống này được thấy ở hát ghẹo ở Thanh Hóa, và hát xoan ở Phú Thọ có tục lệ "nước nghĩa".

Thi đua là một trong những đặc tính quan trọng. Trong một cuộc hát đối, các người hát thi đua về trí nhớ, lời ca, óc nhạy bén, phải tùy cơ ứng biến, khi gặp khó khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có trình độ cao. Do đó, các làng xã xứ ta thường hay tổ chức hát lấy giải.

Đặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải thuộc một số bài căn bản, phải luyện tập thường xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các người hát cùng chung một nhóm thường tựu hợp ở nhà của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó để có thì giờ học tập với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng

Hát hội xảy ra trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp, nhứt là ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Phú Thọ miền Bắc xứ Việt Nam mà thôi.

Mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn giai đoạn:

Hát mời ăn trầu trong trống quân

Hát giọng lề lối trong quan họ

Hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi trong hát phường vải

Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát ghẹo

Sau khi hát mở đầu thì đến phần hát thi. Phần này, bắt đầu các bài hát khó vì phải sáng tác tại chỗ, như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng sỗng, giọng vặt trong quan họ,hát đố, hát đối trong phường vải, và hát đối, hát đố, hát xe kết trong hát ghẹo. Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong trống quân, bên gái ra câu đố thì bên trai phải giải cho trúng và đố lại. Bên nào không đối được thì kể như thua. Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc biệt là cây trống quân hay thổ coå. Một cây mây dài bốn, năm thước căng vòng cầu bắt ngang một cái hố được đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào cây mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống.

Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài hát khen tặng trong trống quân, hát mời, hát xe kết trong phường vải, và giọng hãm, giọng huỳnh trong quan họ.

Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giã bạn trong quan họ, hát thề, hát dặn, hát tiễn trong hát ghẹo.

Hò, lý, hát hội với Trống quân, Quan Họ, Hát phường vải, Hát ghẹo, Hát xoan, cò lả,vv... rất gần với chúng ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả hình ảnh sống động của xã hội nông thôn Việt Nam và mỗi người hát là một nhà thơ.

HÁT VÈ / NÓI VÈ

Vè là một bài văn kể một chuyện đặc biệt xảy ra và ngụ ý khen chê. Bài văn làm theo thể thơ bốn chữ, năm chữ, lục bát, hay song thất lục bát hoặc các thể thơ biến thể. Hát những câu vè thường lấy giọng đọc lên, không có đệm trên, đệm giữa, hay đệm dưới như các lối hát dân ca khác, nhưng dựa trên nhịp 2/4. Ở miền Nam, những câu vè về trái cây, các loại cá, các thứ bánh, vv... ngoài lối vè kể chuyện. Các câu vè thường bắt đầu bằng sáu chữ

Nghe vẻ nghe ve Nghe vè..........

Thí dụ vè trái cây:

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè trái cây

Dây ở trên mây

Là trái đậu rồng

Có vợ có chồng

Là trái đu đủ

Chặt ra nhiều mủ

Là trái mít ướt

Hình tựa gà xước

Vốn thiệt trái thơm

Cái đầu chơm bơm

Đúng là bắp nâú

Hìnhthù xâu xấu

Trái cà dái dê

Ngứa mà gãi mê

Là trái mắt mèo v.v.

Hát vè để tiêu khiển trong lúc làm việc, hát lúc nhàn rỗi một mình. Hát vè không có nhạc, nhưng có tiết điệu. Gần đây ở Việt Nam, có nhiều nhóm nhạc trẻ đã chuyển hát vè thành nhạc Rap rất được ưa thích.

Dân ca Việt Nam rất phong phú, đa dạng, dính liền với bài ca hơn là với dàn nhạc, và nhạc khí. Dân ca đi liền với tiếng hát ru, đồng dao, trò chơi trẻ em, đến các điệu hò, lý, các điệu hát trong khi làm việc, trong các lễ hội tạo cơ hội cho thế hệ gặp nhau qua các loại hát giao duyên, qua tục "nước nghĩa", "kết bạn", "ngủ bọn ". Mức sáng tác bài bản mới vượt qua những thể loại nhạc cung đình, nhạc bác học, nhạc thính phòng và đưa vào trong văn chương bình dân những đóng góp đáng kể (hát quan họ, hát phường vải). Phần nhiều chỉ có tùy hứng lời trên một điệu nhạc (hát trống quân, cò lả). Chỉ có hát quan họ là vừa sáng tác lời lẫn nhạc. Hiện có trên 700 làn điệu khác nhau trong truyền thống hát quan họ. Hiểu được dân ca Việt Nam sẽ mang lại một niềm tự hào cho chính mình, tạo một sự hãnh diện trong lòng khi xứ mình có một nền văn học dân gian phong phú. Ngoài dân tộc Việt hay Kinh, chúng ta còn có 53 sắc tộc anh em sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam với hàng trăm thể loại dân ca, nhạc khí hoàn toàn khác với dân tộc Việt. Đó là đề tài nghiên cứu trong tương lai.

Trần Quang Hải

Paris, Pháp


Sách tham khảo

Bảo Vân 1979: Tục ngữ, ca dao và dân ca , nxb Quê Hương, 304 trang, Toronto, Canada.

Đào Việt Hưng 1999: Tìm hiểu điệu thức dân ca người Việt Bắc Trung Bộ , nxb Viện Âm Nhạc, Hà Nội.

Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý 1978: Quan Họ: nguồn gốc và quá trình phát triển , nhà xuất bản Khoa Học xã hội, 527 trang, Hà Nội.

Lê Giang, Lê Anh Trung 1991: Những bài hát ru, nxb Văn Nghệ, 180 trang, TP Hồ Chí Minh.

Lư Nhất Vũ 1981: Dân ca Bến Tre, Ty Văn Hóa và Thông Tin Bến Tre, 346 trang, Bến Tre.

Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa 1985: Dân ca Kiên Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Kiên Giang, 483 trang, Kiên Giang.

Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Thạch An 1986: Dân ca Cửu Long, Sở Văn Hóa và Thông tin Cửu Long, 391 trang, Cửu Long.

Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Minh Luân 1986: Dân ca Hậu Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Hậu Giang, 666 trang, Hậu Giang

Lư Nhất Vũ, Lê Giang (chủ biên) 1995: Dân ca Đồng Tháp, nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 520 trang, Đồng Tháp.

Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc 1962: Dân ca Quan Họ Bắc Ninh , nxb Văn Hóa, Viện Văn Học, 340 trang, Hà Nội.

Nguyễn Chung Anh 1958: Hát Ví Nghệ Tĩnh, 147 trang, Hà Nội.

Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao 1942: Hát Giặm, quyển 1, 348 trang, Hà Nội 1944: Hát Giặm, quyển 2, 340 trang, Hà Nội

Nguyễn Trọng Ánh 2000: Âm nhạc Quan Họ, nxb Viện Âm Nhạc, Hà Nội.

Nguyễn Văn Huyên 1934: Les Chants Alternés des Garcons et des Filles en Annam , Paul Gueuthner, 224 trang, Paris, Pháp.

Nguyễn Văn Huyên 1997: "Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam", Nghiên Cứu Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam, tập 1, nhiêù tác giả, nxb Văn Hóa Dân Tộc,trang 11-216, Hà Nội.

Nhóm Lam Sơn 1965: Dân ca Thanh Hóa, nxb Văn Học, 286 trang, Hà Nội.

Phạm Duy 1975: Musics of Vietnam (Nhạc Việt Nam), Dale R. Whiteside (xb) Southern Illinois University Press, Carbondale, Hoa Kỳ.

Toan Ánh 1970: Cầm Ca Việt Nam , nxb Lá Bối, 270 trang, Saigon.

Trần Quang Hải 1989: Âm Nhạc Việt Nam, biên khảo, nxb Bắc Đẩu, 361 trang, Paris, Pháp.

Trần Văn Khê 1967:Vietnam (les traditions musicales) (Việt Nam, truyền thống âm nhạc), nxb Buchet/Chastel, 224 trang, Paris, Pháp (tái bản năm 1996)

Trần Việt Ngữ, Thành Duy 1976: Dân ca Bình Trị Thiên , nxb Văn Học, 342 trang, Hà Nội.

Tú Ngọc 1981: Bước đầu tìm hiểu hát Xoan Vĩnh Phú , Ty Văn Hóa Thông tin Vĩnh Phú.

Tú Ngọc 1994: Dân ca người Việt, nxb Âm Nhạc, Viện Âm Nhạc, Hà Nội. (Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam 1995)

Tú Ngọc 1997: Hát Xoan: dân ca lễ nghi -phong tục, nxb Viện Âm Nhạc, 216 trang, Hà Nội.

Danh sách dĩa hát CD nhạc Việt Nam

1. Vietnam / Reves et Realite: Tran Quang Hai et Bach Yen

. (Việt Nam / Giấc Mơ và Sự Thật : Trần Quang Hải và Bạch Yến) 1988. Nhà xuất bản (CD) Playasound PS 65020, Paris, Pháp.

2. Fêtes Traditionnelles Vietnamiennes / Trân Quang Hai & Bach Yên ( Lễ Truyền Thống Việt Nam / Trần Quang Hải và Bạch Yến) 1996. Nhà xuất bản (CD) Studio SM, Paris, Pháp.

3. Khac Chi Ensemble / Moonlight in Vietnam. (Ban Khắc Chí / Ánh Trăng Việt Nam) 1997.Nhà xuất bản (CD) Henry Street Records HSR 000, Canada..

4. Songs of the Banyan - Phong Nguyên Ensemble, 1997. Nhà xuất bản Latitude LAT 50607, North Carolina, Hoa kỳ.

Dĩa CD phát hành tại Việt Nam

1. Làng Quan Họ (Village in Quan Họ) . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), CD1, Hà Nội .

2. Thuyền Quan Họ (The Boat in Quan Họ) Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), CD2, Hà Nội.

3. Tình Quan Họ (The Love in Quan Họ) . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), CD3, Hà Nội.

4. Trăng Quan Họ (The Moon in Quan Họ) . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), CD4, Hà Nội.

5. Về với Huế (Coming to Huế) . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), Hà Nội.

6. Hò Sông Mã (Tunes of Mã River) . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), Hà Nội.

7. Hát Ru (Lullabies) . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), Hà Nội.

8. The Best of Vietnamese Folk Songs and Music . Nhà xuất bản VMI (Vietnam Musicology Institute), Hà Nội.

Những dĩa hát CD phát hành tại Việt Nam từ 1995 trở đi . Ngoài ra Viện Âm Nhạc bắt đầu xuất bản loại dĩa VCD, vừa có nhạc lẫn hình từ năm 1999.

Thứ Tư, 7 tháng 10, 2009

Những loại đờn thường được dùng trong nhạc cải lương

Âm nhạc cải lương hơi nhẹ nhàng vì dùng đờn dây tơ và dây kim, không có kèn trống như hát bội. Có những thứ đờn thường dùng trong điệu cải lương như sau:

1. Ðờn kìm: đờn Kìm cũng gọi là "Nguyệt cầm" có hai dây tơ và tám phím. Tiếng kìm tuy không trong và thanh như tiếng Tranh hay Lục huyền cầm, nhưng cũng có âm hưởng nhiều nên khi hòa với cây Tranh nghe rất hay. Tùy hơi cao thấp của diễn viên, đờn Kìm có thể đờn năm dây Hò khác nhau.

2. Ðờn Tranh: đờn Tranh hay đờn Thập Lục có 16 dây. Tiếng đờn Tranh được thanh tao nhờ dùng dây kim và nhấn tiếng có ngân nhiều. Cũng như cây kìm, đờn Tranh có thể đổi bực dây Hò tùy theo hơi cao thấp của người ca.

3. Ðờn Cò: Cây Cò, cũng gọi là đờn Nhị, có hai dây tơ, không có phím và dùng cây cung để kéo ra tiếng. Ðờn Cò là cây đờn đắc dụng nhất của âm nhạc Việt Nam . Nó chẳng khác nào cây Violon trong âm nhạc Âu Mỹ. Luôn luôn có mặt trong hát Bội, Cải lương, nhạc Tài tử,...

4. Ðờn Sến: Cây Sến có hai dây tơ và có đủ bậc như cây Banjo, nên đờn ít nhấn và có nhiều chữ lợ nghe ngộ. Có khi đờn ba dây nghe hơi như đờn Tỳ.

5. Guitare: Cây Guitare cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm, có sáu dây kim, nhưng thường đờn có năm dây. Tiếng thanh như đờn Tranh, khi đờn bực cao.

6. Violon: Cây Violon, cũng có tên là Vĩ Cầm, có bốn dây tơ và cung kéo như đờn Cò. đờnnày dùng phụ họa với cây Guitare hay cây Tranh để đờn Vọng cổ nghe hay, nhưng ít dùng đờn các bản khác vì tiếng nó kêu lớn làm lấn áp mấy cây đờn kia.

7.Cây Sáo: Cây hay ống Sáo, hoặc ống Tiêu, cũng có dùng trong điệu Cải lương, nhưng nó có một bậc Hò, không thay đổi. Thành thử người ta phải theo bậc Hò bất di bất dịch ấy.

8. Cây Cuỗn: Cây Cuỗn giống như cây Kèn, nhưng không có cái Loa.

9. Bầu: Cây đờn Bầu còn được gọi là Độc quyền Cầm, chỉ có 1 dây kim, Đàn không có phím,chỉ sử dụng cần rung để nhấn chữ đờn….v.v

Thể thức 20 Bài Tổ trong Nhạc Tài Tử

THỂ THỨC 20 BÀI TỔ
(Nhạc tài tử Nam bộ)

- 3 Nam : Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo ( đảo ngũ cung)
- 6 Bắc : Lưu thủy , Phú lúc, Bình Bán, Cổ bản, Xuân tình, Tây thi.
- 7 Bài hạ ( Nhạc Lễ): Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, vạn giá, long Đăng, Long ngâm, Tiếu khúc, Xàng xê.
- 4 Oán ( chính): Tứ đại oán, Phụng Hoàng lai nghi, Phụng cầu hoàng duyên, Giang nam cữu khúc. 4 Oán phụ : Văn thiên tường, Trường tương tư, Thanh dạ đề Uyên, Bình sa lạc nhạn.

I.3 BÀI NAM:
1. Nam Xuân: có 68 câu nhịp tư.
- Lớp 1: có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8 ( vô chữ xang)
- Lớp 2: có 8 câu, từ câu 9 đến câu 16.
- Lớp 3: có 4 câu, từ câu 17 đến câu 24, từ câu 21 đến câu 24 (Phản ai).
- Lớp 4: có 8 câu, từ câu 25 đến câu 32.( Trùngnhw lớp 1, từ câu 1 đến câu 8)
- Lớp 5: ( Trống xuân1) có 8 câu, từ câu 33 đến câu 40.
- Lớp 6: ( Trống xuân 2)có 8 câu, từ câu 41 đến câu 48.
- Lớp 7: có 8 câu, từ câu 41 đến câu 48. ( Trùng như lớp 1, từ câu 1đến câu 8)
- Lớp 8: có 8 câu, từ câu 49 đến câu 64. ( Trùng như lớp 2, từ câu 9 đến câu 16)
- Lớp 9: có 4 câu, từ câu 65 đên câu 68. (Trùng với 4 câu 17,18,19,20 của lớp 3)
2. Nam ai: có 84 câu nhịp tư.
+ Nếu đàn từ Nam xuân qua Nam ai thì có thêm 4 câu phản xuân qua Ai.
- Lớp 1: có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8. ( vô chữ xang)
- Lớp 2: có 8 câu, từ câu 9 đến câu 16.
- Lớp 3 : có 8 câu, từ câu 17 đến câu 24.
- Lớp 4 : có 8 câu, từ câu 25 đến câu 32. (câu 25 là câu ngăn, từ câu 26-32 trùng với câu 2 đến câu 8 của lớp 1)
- Lớp 5 : có 8 câu, từ câu 33 đên câu 40.( Trùng với câu 9 đến câu 16 của lớp 2)
- Lớp 6 : có 8 câu, từ câu 41 đến câu 48.( Trùng với câu 17 đến 24 của lớp 3)
- Lớp 7 : ( Máy ai 1) có 8 câu, từ câu 49 đến câu 56.
- Lớp 8 : ( Máy ai 2) có 8 câu, từ câu 57 đến câu 64.
- Lớp 9 : có 8 câu, từ câu 65 đến câu 72.( Trùng với câu 1 đến câu 8 của lớp 1)
- Lớp 10: có 8 câu, từ câu 73 đến câu 80.( Trùng với câu 9 đến 16 của lớp 2)
+ Đàn hết bài Nam ai có 80 câu cộng thêm 4 câu phản xuân qua ai là 84 câu.
3. Nam đảo ( đảo ngũ cung) có 48 câu nhịp tư.
- Nếu đàn từ Nam xuân qua Nam đảo thì có thêm 4 câu phản xuân.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8. ( vô xang)
- Lớp 2 : có 8 câu, từ câu 9 đến câu 16.
- Lớp 3 : có 8 câu, từ câu 17 đến câu 24.
- Lớp 4 : có 8 câu, từ câu 25 đến câu 32.
- Lớp 5 : có 8 câu, từ câu 33 đến câu 40.
- Lớp 6 : có 7 câu, từ câu 41 đến câu 48. (từ câu 41 đên câu 47 trùng với câu 9 đến câu 15 của lớp 2, câu 48 chuyển qua hơi ai, từ Hò tư sang Hò nhứt để qua song cước)
- Song cước : có 15 câu nhịp tư.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8.
- Lớp 2 : có 7 câu, từ câu 9 đến câu 15.( Từ câu 9 đến câu 14 trùng với câu 1đến câu 6 của lớp 1)
+ Đàn hết bài Nam đảo có 48 câu, cộng thêm 4 câu phản xuân là 52 câu và 2 lớp song cước.
II. 6 BÀI BẮC.
1. Lưu thủy trường. có 32 câu.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8.( Vô chữ liu)
- Lớp 2 : có 8 câu, từ câu 9 đến câu 16.
- Lớp 3 : có 8 câu, từ câu 17 đến câu 32.
2. Phú lục. có 34 câu.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8.( vô chữ U)
- Lớp 2 : có 8 câu, từ câu 9 đến câu 16.
- Lớp 3 : có 8 câu, từ câu 17 đến câu 24.
- Lớp 4 : có 10 câu, từ câu 25 đến câu 34.
3. Bình bán chấn. có 44 câu.
- Lớp 1 : có 10 câu, từ câu 1 đén câu 10.
- Lớp 2 : có 12 câu, từ câu 11 đến câu 22.
- Lớp 3 : có 19 câu, từ câu 23 đến câu 32.
- Lớp 4 : có 12 câu, từ câu 33 đến câu 44.
4. Cổ bản. có 34 câu.
- Lớp 1 : có 6 câu, từ câu 1 đến câu 6.( Vô chữ xê)
- Lớp 2 : có 6 câu, từ câu 7 đến câu 12.
- Lớp 3 : có 6 câu, từ câu 13 đến câu 19.
- Lớp 4 : có 7 câu, từ câu 20 đến câu 26.
- Lớp 5 : có 8 câu, từ câu 27 đến câu 34.
5. Xuân tinh. Có 48 câu.
- Lớp 1 : có 14 câu, từ câu 1 đến câu 14.( Vô chữ Cống)
- Lớp 2 : có 16 câu, từ câu 15 đến câu 30.
- Lớp 3 : có 10 câu, từ câu 31 đến câu 40.
- Lớp 4 : có 8 câu, từ câu 41 đến câu 48.
6. Tây thi. Có 26 câu.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đến câu 9. ( Vô chữ liu)
- Lớp 2 : có 23 câu, từ câu 10 đên câu 22.
- Lớp 3 : có 4 câu, từ câu 23 đến câu 26.
III. 7 Bài hạ.
1. Ngũ đối thượng. ( Hơi hạ) có 61 câu.
- Lớp 1 : có 16 câu, từ câu 1 đến câu 16. ( Vô chữ Cộng)
- Lớp 2 : có 8 câu, từ câu 17 đến câu 24.
- Lớp 3 : có 8 câu, từ câu 25 đến câu 32.
- Lớp 4 : có 16 câu, từ câu 33 đến câu 48.
- Lớp 5 : có 13 câu, từ câu 49 đến câu 61.( Nếu đàn 60 câu thì bỏ câu 53)
2. Ngũ đối hạ. có 38 câu.
- Lớp 1 : có 9 câu, từ câu 1 đến câu 9.( Vô chữ Liu)
- Lớp 2 : có 6 câu, từ câu 10 đén câu 15.
- Lớp 3 : có 6 câu, từ câu 16 đến câu 21.
- Lớp 4 : có 6 câu, từ câu 22 đến câu 27.
- Lớp 5 : có 11 câu, từ câu 28 đến câu 38.
3. Vạn giá. Có 47 câu.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đén câu 8.( Vô chữ Liu)
- Lớp 2 : có 6 câu, từ câu 9 đến câu 14.
- Lớp 3 : có 10 câu, từ câu 15 đến câu 24.
- Lớp 4 : có 14 câu, từ câu 25 đến câu 38.
- Lớp 5 : có 9 câu, từ câu 39 đến câu 47.
4. Long đăng. Có 40 câu.
- Lớp 1 : có 16 câu, từ câu 1 đến câu 16 ( vô chữCộng)
- Lớp 2 : có 12 câu, từ câu 17 đến câu 28.
- Lớp 3 : có 12 câu, từ câu 29 đến câu 40.
5. Long Ngâm. Có 33 câu.
- Lớp 1 : có 8 câu, từ câu 1 đến câu 8.( Vô chữ Xừ)
- Lớp 2 : có 11 câu, từ câu 9 đến câu 19.
- Lớp 3 : có 14 câu, từ câu 20 đến câu 33.
6. Tiểu khúc. Có 29 câu.
- Lớp 1 : có 10 câu, từ câu 1 đến câu 10.( Vô chữ Cộng)
- Lớp 2 : có 7 câu, từ câu 11 đến 17.
- Lớp 3 : có 8 câu, từ câu 18 đến câu 25.
- Lớp 4 : có 4 câu, từ câu 26 đến câu 29.
7 Xàng xê. Có 64 câu.
- Lớp 1 : có 20 câu, từ câu 1 đến câu 20. ( vô chữ Xang)
- Lớp 2 ( Lớp hò): có 16 câu, từ câu 21 đến câu 36.
- Lớp 3 (Lớp xề) : có 12 câu, từ câu 37 đến câu 48.
- Lớp 4( Lớp chót) : có 16 câu, từ câu 49 đến câu 64.
III. 4 OÁN. (Chính)
1. Tứ đại oán. Có 38 câu nhịp 8.
- Lớp đầu : có 7 câu, từ câu 1 đến câu 7. ( vô chữ Liu)
- Lớp Xang dài 1: có 8 câu, từ câu 8 đến câu 15.
- Lớp Xang dài 2: có 8 câu, từ câu 16 đến câu 23.( Trùng với lớp xang dài 1)
- Lớp Xang vắn 1: có 4 câu, từ câu 24 đến câu 27.
- Lớp Xang vắn 2 : có 3 câu, từ câu 28 đến câu 30.( Trùng với câu 24,25,26)
- Lớp Hồi thủ : có 8 câu, từ câu 31 đến câu 38.
2. Phụng hoàng Lai nghi. Có 48 câu nhịp 8.
- Lớp 1 : có 10 câu, từ câu 1 đến câu 10.( Vô chữ liu)
- Lớp 2 : có 12 câu, từ câu 11 đến câu 22.
- Lớp 3 : có 14 câu, từ câu 23 đến câu 36.(Từ câu 23 đến câu 32 trùng với câu 5 đến câu 14)
- Lớp 4 : có 12 câu, từ câu 37 đến câu 48.
3. Phụng cầu hoàng duyên. Có 40 câu nhịp 8.
- Lớp 1 : có 18 câu, từ câu 1 đến câu 18. ( vô chữ Xang)
- Lớp 2 : có 8 câu, từ câu 19 đến câu 26.( Từ câu 19 đến câu 22 trùng với câu 1 đến câu 4 của lớp 1)
- Lớp 3 : có 14 câu, từ câu 27 đến câu 40.
4. Giang nam cửu khúc. Có 58 câu nhịp 8.
- Lớp 1 : có 16 câu, từ câu 1 dến câu 16. ( vô chữ liu)
- Lớp 2 : có 9 câu, từ câu 17 đến câu 34. (từ câu 17 đến câu 25 trùng với câu 1 đến câu 9, từ câu 27 đến câu 34 trùng với câu 9 đến câu 16 của lớp 1)
- Lớp 3 : có 13 câu, từ câu 36 đến câu 47.
- Lớp 4 : có 11 câu, từ câu 48 đến câu 58.

Hết 20 bài tổ