Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2009

Phương pháp thực hành hát

PHẦN 1: HƠI THỞ TRONG CA HÁT


Âm thanh xuất hiện từ khe thanh quản do tác động của luồng hơi thở từ phổi đẩy ra làm rung thanh đới. Thanh đới rung lên không phải là một hoạt động thụ động của hệ thống thần kinh trung ương để thực hiện một yêu cầu nào đó, chẳng hạn khi ta muốn nói hoặc muốn hát. Khi đó thanh đới phải căng ra ở một mức độ cần thiết tương ứng với áp lực của hơi thở ở dưới phổi đẩy lên để tạo nên một âm thanh mong muốn. Ý định của người hát muốn hát ở một âm cao, thấp, to, nhỏ được chuyển hóa thành những tác động của hệ thần kinh trung ương điều khiển độ căng của thanh đới tương ứng với âm thanh ta định phát ra, đồng thời, gần như một lúc, điều khiển một áp lực của hơi thở từ phổi đẩy ra tương ứng với độ căng của thanh đới. Hai lực này phải luôn luôn phù hợp với nhau mới có được âm thanh chính xác và có chất lượng. Muốn chủ động điều khiển hoạt động này, người hát phải tập đẩy hơi thở và ghìm hơi thở sao cho những hoạt động đó trở thành thói quen chính xác như người chơi đàn tập bấm đúng những phím đàn, hoặc điều khiển môi, hơi thở, tay bấm khi thổi kèn... những người không biết hát hoặc hát không tốt thì một trong những nguyên nhân là không biết điều khiển hơi thở và không biết điều khiển thanh đới.
Ngoài chức năng chính cung cấp dưỡng khí cho cơ thể và tác động lên thanh đới để tạo âm thanh, hơi thở trong khi hát còn giải quyết yêu cầu nữa là góp phần làm rõ ý nghĩa của lời hát. Chỗ lấy hơi đồng thời cũng là chỗ ngắt câu, ấn định sự trọn ý, trọn nghĩa của câu hát. Không thể lấy hơi tùy tiện được.

PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP THỞ TRONG CA HÁT


Ca hát đã có trong sinh hoạt của con người từ ngàn xưa, và qua quá trình tiến hóa đã trở thành một loại hình nghệ thuật quan trọng. Để có thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng của nghệ thuật qua các thời đại, người ta đã thể nghiệm nhiều phương pháp thở để phục vụ cho tiếng hát như: Thở ngực, thở ngực kết hợp với thở bụng, thở ngực dưới và bụng (hoặc còn gọi là thở xương sườn cụt và hoành cách mô) và thở bụng.
Mỗi phương pháp thở đều có những ưu điểm và nhược điểm, nhưng cho đến nay phần lớn những người hát chuyên nghiệp, kể cả không chuyên khi muốn học hát thực thụ của nhiều nước, trong đó có nước ta, đều tập thở (trong ca hát) theo phương pháp THỞ NGỰC DƯỚI VÀ BỤNG, coi đó là phương pháp thở phù hợp với yêu cầu của ca hát hơn cả.
Trong phương pháp thở ngực dưới và bụng, khi hít hơi vào, phần ngực dưới căng ra, các xương sườn cụt giương lên, bụng cũng hơi phình ra ở phía dưới một chút và cả hai bên sườn, hoành cách mô cũng tham gia tích cực vào quá trình hô hấp này.
Hơi thở là một nhân tố cường độ (to, nhỏ) quan trọng trong ca hát. Nó giống như chiếc ác-sê (vĩ) của cây đàn viôlông, nó khiến phát ra âm thanh và cho phép điều chỉnh độ vang, tạo cho âm thanh sự phẳng lặng, sự sinh động và sức mạnh từ sắc thái nhỏ (pianô) - hầu như không nghe thấy cho đến sắc thái cực to (forte).
Tuy vậy quá trình phát âm phải là sự phối hợp chính xác của động tác lấy hơi, đẩy hơi với các hoạt động khác của cơ quan phát âm như: phối hợp với thanh quản, với bộ phận truyền âm (cuống họng, mồm). Đó là những hoạt động tương hỗ, tác động qua lại với nhau, tất cả mọi hoạt động đều phải đúng, phải chính xác, phù hợp với nhau mới tạo nên những âm thanh đẹp. Chẳng hạn, nếu ta hít vào một hơi thở sâu và đẩy ra một luồng hơi đều đặn, liên tục thì đó là cơ sở tốt cho âm thanh, nhưng nếu những hoạt động ngay sau đó, như mồm mở quá hẹp hoặc quá rộng, hoặc chúm môi lại, hoặc đưa hàm dưới ra phía trước... thì dù hơi thở đúng cũng chẳng có được một âm thanh tốt, mà chỉ có thể là một âm thanh hoặc là sâu; hoặc là bẹt, hoặc là tối, hăy gằn cổ...

Phần 3: ĐỘNG TÁC LẤY HƠI


Khi lấy hơi (hít hơi) phải NHẸ NHÀNG NHƯ NUỐT KHÔNG KHÍ vào, không phát ra tiếng động. Cố gắng lấy hơi nhanh, lấy hơi chậm sẽ ảnh hưởng tới tiết tấu của câu hát và làm cho sự bật ra âm thanh (attacca) bị căng thẳng một cách không cần thiết. Nên LẤY HƠI NHANH BẰNG MŨI, MỘT PHẦN NÀO ĐÓ QUA MỒM. Khi lấy hơi, mồm hé mở tự nhiên, hơi thở hít vào sẽ qua cả mũi và mồm.
Nếu chỉ lấy hoàn toàn bằng mũi hoặc hoàn toàn bằng mồm, luồng hơi khó vào sâu trong phổi, và gặp không khí lạnh có thể gây tác hại cho thanh quản hoặc dễ làm khô cổ.
Không nên lấy quá nhiều hơi vì như vậy sẽ cảm thấy mệt nhọc. Lấy thừa hơi người hát buộc phải đẩy hơi thừa ra ngoài, và lại phải lấy hơi tiếp. Khi lấy hơi phải tùy thuộc vào độ dài hay ngắn, cao thấp của câu hát. Khi hát không nên sử dụng hết kiệt hơi thở mà nên để thừa lại một chút trước khi lấy hơi thở khác.
Không được nhô vai cao khi lấy hơi, vì như thế các cơ hô hấp sẽ bị suy yếu, luồng không khí đi vào sẽ rất nông, chỉ chứa một ít ở phần trên của phổi, không thể hát được câu hát dài và cao. Vả lại nhô vai lên khi hít hơi trông không đẹp mắt.


Phần 5: BƯỚC ĐẦU TẬP THỞ


A.TẬP THỞ KHÔNG KÈM THEO ÂM THANH

*Bài tập 1: Lấy hơi như vào như đã giới thiệu ở phần trước
-Hít hơi vào chậm, trong vài giây
-Ghìm hơi thở trong 1-2 giây
-Đặt đầu lưỡi giữa 2 hàm răng đã xít lại, xì hơi dần ra ngoài qua khe hở của 2 hàm răng, tạo ra tiếng "xì" nhè nhẹ
-Kéo dài tiếng "xì" này càng dài càng tốt (nhẩm đếm 1,2,3,4...; cố gắng mỗi ngày tăng dần độ dài lên). Chú ý cho tiếng "xì" đó phát ra đều đặn không giật cục, không quá nhỏ.
Trong khi "xì" hơi ra, phải giữ sự căng thẳng cần thiết của phần bụng và phần giáp ngực, cụ thể là tuy hơi thở vẫn "xì" ra, nhưng 2 bên mạn sườn cố giữ không cho óp vào nhanh, bụng không xẹp xuống đột ngột.

*Bài tập 2: Lấy hơi và ghìm hơi như bài tập 1
-Chúm môi thổi hơi từ từ ra ngoài
-Để bàn tay gần miệng, cảm nhận luồng hơi phả vào bàn tay để kiểm tra xem hơi thở có đều đặn liên tục không. Có người cầu kì hơn, thắp ngọn nến, thổi hơi sao cho ngọn lửa đổ nghiêng và giữ nguyên một góc độ .

*Bài tập 3: Lấy hơi và ghìm hơi như bài tập 1
Tập cảm giác tập trung hơi thở vào vị trí, bằng cách sau khi hít hơi thì ngậm miệng, bịt mũi, nén hơi thở lên phía trên sống mũi, nén vài lần rồi buông tay và thở ra ngoài.
Chú ý: Hàng ngày trước khi tập hát có thể tập riêng hơi thở khoản 5-10 phút.

B.TẬP HƠI THỞ VỚI ÂM THANH:
Là bài tập phát triển hơi thở, nhưng cũng là bước chuẩn bị cho những bài tập kết hợp hơi thở và đặt vị trí âm thanh.
Bước đầu chú ý hát những nguyên âm a, ê, i, ô, u cho tròn trịa, không bẹt tiếng, nhả âm nhẹ nhàng nhưng vẫn bắt đầu các âm cho rành mạch và không gằn tiếng
*Bài tập 1:

*Bài tập 2:

*Bài tập 3:

*Bài tâp 4:


--------còn tiếp----------------

Phần 5: BƯỚC ĐẦU TẬP THỞ (tt)

Các bạn đã tham khảo 4 bài tập thở với âm thanh. Những bài tập trên phải luyện với tốc độ quy định rõ ràng, thời gian đầu có thể luyện hoơ nhanh, về sau tập với tốc độ chậm hơn để dần dần kéo dài hơi thở. Nếu có phần đệm (oóc-gan, pianô, ghita...) để giữ tốc độ và tiết tấu đều đặn. Khi tập các bạn có thể dùng đồng hồ theo dõi, lúc đầu luyện mỗi bài một hơi thở từ 6-8 giây, về sau luyện với tốc độ chậm hơn: mỗi bài, một hơi thở tới 12 giấy. Luyện cao dần lên từng nửa cung, xuống dần từng nửa cung, không cao quá hoặc thấp quá. Tốt nhất chỉ nên trong phạm vi âm khu trung của giọng hát.

*Bài tập số 5:


*Bài tập số 6:


Ở bài tập số 5 có thể tập vào thời gian sau khi đã luyện thành thục các bài tập trước. Các bạn tập ở tốc độ vừa phải bằng nguyên âm a. Lúc đầu hết một câu, đến hình nốt trắng thì lấy hơi. Ở những lần sau vẫn giữ nguyên tốc độ, nhưng lấy hơi một lần để hát cả 2 câu. Nếu được như vậy thì bạn đã "tiết kiệm" và dành đủ hơi để hát những câu hát dài.
Khi hát thì âm thanh phát ra phải nhẹ nhàng, hát rõ ràng từng nốt, không bỏ nốt nhạc nào, chú ý không vì quan tâm quá đến hơi thở mà bỏ qua chất lượng của âm thanh.

Phần 6 : TỔ CHỨC ÂM THANH


Chất lượng của âm thanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà một trong những yếu tố đó là hoạt động của mồm. Hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến âm thanh. Hoạt động của mồm bao gồm những cử động của hàm dưới, môi, lưỡi, hàm ếch mềm. Tất cả những cử động này khi hát tạo nên hình dáng của mồm, thường gọi là KHẨU HÌNH.

a)Hình dáng bên ngoài của mồm khi hát:
Hình dáng của mồm khi hát thay đổi theo sự phát âm nhả chữ, nghĩa là phụ thuộc vào những nguyên âm. Khi nói, các nguyên âm được phát ra nhanh, gọn, không cần phải mở rộng mồm để kéo dài nguyên âm. Nhưng khi hát các nguyên âm được kéo dài theo trường độ của nốt nhạc. Bởi vậy khi hát những âm có trường độ kéo dài mồm phải mở rộng hơn, tích cực hơn, linh hoạt hơn, nếu không thì âm thanh rít qua hai hàm răng và hàm dưới cứng đưa ra phía trước khiến âm thanh không thoát ra ngoài một cách tự nhiên.
Thường thường các giọng nữ mở mồm rộng hơn các giọng nam, nhất là giọng nữ cao khi hát những nốt cao.

b)Hoạt động của môi khi hát:
Sau khi âm thanh được phát ra từ khe thanh quản do áp lực hơi thở lên thanh đới, âm thanh đi ra ngoài qua mồm. Ở đây, do các hoạt động của các bộ phận của mồm, âm thanh đã được lồng vào những nguyên âm và phụ âm, tạo thành lời của câu hát. Hoạt động của môi nằm trong hoạt động chung của mồm.
Tư thế của môi khi hát phụ thuộc vào những nguyên âm và phụ âm. Chẳng hạn ở nguyên âm a và ô, môi tạo hình dáng mở tròn.; Ở nguyên âm u môi hơi chúm lại và đưa ra phía trước; Ở nguyên âm ê môi hơi nhếch lên… Tư thế của môi còn liên quan đến từng loại giọng hát. Những giọng hát cao và nhẹ, khi hát thường áp dụng tư thế hơi nhếch môi trên và hở hàm răng trên. Trong khi đó nhưng giọng trầm khi hát thường hay đưa môi ra phía trước và che kín răng.
Cho dù áp dụng môi theo kiểu nào cũng đều phải tập cho môi mềm mại, linh hoạt. Không nên chúm môi quá khi hát để tránh cho âm thanh không bị sâu và tối. Ngược lại không nên trễ môi dưới quá dễ làm cho âm thanh bị toè, bẹt. Hoạt động của môi phải linh hoạt để bật những phụ âm cho rõ ràng, tạo điều kiện hát được rõ lời, nhất là khi hát những bài hát có tốc độ nhanh.

*Bài tập thực hành:
Để cho môi hoạt động được mềm mại, linh hoạt, ta có thể tập những động tác cử động môi không phát âm, hoặc tập nói nhanh và nhắc đi nhắc lại nhiều lần các phụ âm và nguyên âm. Ví dụ:
-Mi mi mi, ma ma ma, mô mô mô, mu mu mu
-Pi pi pi, pa pa pa, pô pô pô, pu pu pu
-Ka pê tê, pê tê ka

Ngoài ra cũng có thể tập những câu nói thwờng tập cho trẻ em phát âm rõ ràng:
-Tháng năm nắng lắm, ốc bám cọc cầu ao
-Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch.

Đó cũng là những câu tập các hoạt động của mồm, trong đó có hoạt động của môi mà chúng ta có thể áp dụng.

LƯU Ý:
-Nếu đôi môi gần nhau quá, giọng hát sẽ bị pha tiếng cổ (cổ họng)
-Nếu chúm môi nhiều, âm thanh sẽ bị tối, sâu và nặng nề

c)Hoạt động của lưỡi khi hát:
Lưỡi là bộ phận hoạt động liên tục trong khi hát. Hoạt động của lưỡi phát ra những âm thanh tạo thành lời hát.
Có người khi hát thì đặt lưỡi theo kiểu chiếc thìa úp sấp, đầu lưỡi nằm dưới gần chân răng hàm dưới. Có người khi hát lưỡi lại hơi cong lên ở phần giữa hoặc phần đầu lưỡi. Những giọng cao và nhẹ khi hát thường đặt đầu lưỡi ở chân răng hàm dưới. Những người có giọng trầm thường đặt thường uốn lưỡi cong lên…
Dù giọng cao hay giọng trầm, khi hát nên đặt lưỡi ở tư thế tự nhiên, mềm mại, không nên đưa ra phía trước cũng không tụt về phía sau. Lưỡi cứng là nguyên nhân gây ra giọng cổ, hát không rõ lời. Cuống lưỡi cong lên nhiều quá sẽ gây khó khăn khi hát những âm thanh cao. Hoạt động của lưỡi một phần phụ thuộc vào cử động của hàm dưới. Nếu hàm dưới cứng hoặc chìa ra phía trước cũng sẽ làm cho lưỡi cứng và nghẹt âm thanh. Do vậy khi tập cử động lưỡi cần phải chú ý buông lỏng hàm dưới cho mềm mại. Lưỡi hoạt động không linh hoạt thì phụ âm sẽ phát ra không rõ nét, lời sẽ không đẹp , không rõ ràng.
Ta có thể tập cử động lưỡi bằng những bài tập nguyên âm ghép với các phụ âm Đ, L, N, R, T

d)Hoạt động của hàm dưới khi hát:
Một số người mới tập hát hoặc những người có giọng nam cao hay mắc phải tật cứng hàm, mồm không được mở rộng thoải mái. Hàm cứng sẽ làm cho lưỡi bị cong lên, khi hát những nốt cao thì âm thanh sẽ bị nghẹt và bị chà xát nơi cổ. ĐÓ LÀ NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU GÂY RA GIỌNG CỔ, đồng thời là cũng là một nguyên nhân gây HẠN CHẾ ÂM KHU CAO CỦA GIỌNG.
Khi hát phải luôn chú ý buông lỏng hàm dưới, hạ hàm xuống một cách mềm mại, không đưa hàm ra phía trước.

e)Hoạt động của hàm ếch mềm khi hát:
Vòm trên của mồm là hàm ếch. Phần ngoài cố định, không cử động được gọi là hàm ếch cứng. Phần trong mềm, có thể cử động được gọi là hàm ếch mềm. Hàm ếch mềm nối với lưỡi gà, khi cử động có thể đóng, mở đường ra mồm và lên hốc mũi. Khi muốn nâng lên ta mở rộng mồm phía trong giáp với cuống họng (ví dụ như khi ngáp) Hàm ếch mềm khi hạ xuống sẽ đóng hoàn toàn đường từ cuống họng ra mồm.
Hàm ếch mềm khi hát phải mềm mại, không nên vì mở rộng hàm ếch mà làm cho nó quá căng thẳng, sẽ ảnh hưởng tới cuống họng, âm thanh không thoát ra ngoài một cách thoải mái.
Nếu hàm ếch mềm không nâng lên được, phần trong giáp với cuống họng không mở ra được, âm thanh sẽ ĐI RA NGOÀI BẰNG ĐƯỜNG MŨI là chủ yếu, âm sắc sẽ xỉn và nghẹt, gọi là GIỌNG MŨI.

Phần 6: TỔ CHỨC ÂM THANH (tt)


g)Vị trí của âm thanh (trích):

Đây là một vấn đề cực kì quan trọng với người học hát. Tiếng có đẹp, có tròn, có vang, có khả năng bay xa…một phần phụ thuộc vào vị trí của âm thanh.
Khi một người hát tốt, ta có cảm giác như âm thanh phát ra không phải âm vang từ mồm, mà như ở chỗ nào đó cao hơn, ở đầu, ở hốc mũi, ở trán… Hiện tượng này là có thật. Âm thanh của giọng hát không chỉ âm vang ở mồm, mũi mà truyền đi ở những hốc vang khác nữa. Khi ta hát một âm thanh vang tốt, ta cảm thấy hơi rung ở xương mặt.
Ta đã biết ở xương mặt có những hốc (xoang) và những xoang này ăn thông với nhau với hốc mũi. Khi ta hát, nếu chủ động, có ý thức đẩy âm thanh lên phía trên, hướng lên cao (đây là yếu tố trừu tượng, nặng về ý chí và cảm giác) thì ta sẽ tác động cho những xoang bao bọc bởi những niêm mạc với hệ thống dây thần kinh chi chít ở phía trên kích thích rung động, gây nên những cảm giác đặc biệt, tức là cộng minh đầu. Có nghĩa là ta đã chủ động, có ý thức tạo ra sự cộng hưởng, cùng rung vang của các xoang trên mặt. Đó gọi là vị trí cao của âm thanh.
Vị trí cao của âm thanh là những cảm giác, nhưng chính những cảm giác ấy giúp người hát đánh giá hoạt động của cơ quan phát âm đúng hay sai. Ở mỗi loại giọng hát, những cảm giác cộng minh này có thể có mức độ nhiều, ít khác nhau.

*Bài tập thực hành:
Mục đích của bài tập này là thực hành những lí thuyết đã được tham khảo về hình dáng mồm, hoạt động của môi, lưỡi, cho nên các bạn chỉ cần dùng nguyên âm (a, i..) hoặc kết hợp với những phụ âm (la, ma, mi…)
Chú ý: Khi lấy hơi vào, thử tưởng tượng như đang buồn ngủ và muốn ngáp, để mở rộng mồm phía trong, nhấc hàm ếch mềm lên, mở rộng lối cho âm thanh cùng một lúc đi vào mồm và hốc mũi.
Buông lỏng hàm dưới xuống một cách mềm mại. Lưỡi đặt ở tư thế tự nhiên, mềm mại. Khi hát nguyên âm, đầu lưỡi chấm vào chân răng hàm dưới. Khi tập kết hợp với phụ âm L, lưỡi cử động linh hoạt.
Khi tập với phụ âm M, môi phải linh hoạt để bật ra âm thanh rõ ràng linh hoạt.
Hình dáng của mồm thoải mái, thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào cử động của môi, lưỡi, hàm dưới, hàm ếch mềm.
Các bạn tham khảo bài tập hát dần từng nửa cung đến độ cao thích hợp:



Cố gắng thử hình dung đẩy âm thanh lên vị trí cao, tưởng như âm thanh không phải phát ra từ mồm, mũi, mà từ trên trán phát ra.
Muốn biết mồm bên trong và hàm ếch mềm có nhấc lên được hay không, có thể căn cứ vào yết hầu (nam giới thấy rõ hơn). Hầu tụt xuống là hàm ếch đã mở (chú ý: đừng để hầu tụt xuống quá, sẽ gây ra sự căng cứng, kém linh hoạt khi phát âm.
-------------- nguồn: Phương pháp thực hành hát và chỉ huy dàn dựng hát tập thể - Nxb Giáo dục--------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét